Gió Qua Sân Sắt, Có Người Đợi Nhà
Chương 1
Trảm Phong—trúc mã của ta. Từng lõa lồ lăn lộn bùn cùng nhau.
Năm hắn bảy tuổi, phụ thân hắn—ông lão thợ rèn mặt lúc nào cũng căng như tấm sắt—một búa lệch tay, tự mình mất mạng. Mẫu thân hắn khóc cạn nước mắt, rồi cũng đi theo.
Căn lò rèn rách nát sát vách nhà ta, chỉ còn lại hắn, vóc dáng chưa cao hơn mặt bếp là mấy.
Mẫu thân ta mềm lòng, bưng một bát cháo tạp qua. Hắn thu mình nơi góc tường, đôi mắt đen như hai giếng cạn.
“Ăn đi.” Ta đẩy bát cháo tới.
Hắn không động.
Ta nhấc đũa, nhét mạnh vào tay hắn. “Không ăn thì ch//ết đói! Ch//ết rồi ai đốt giấy cho cha mẹ ngươi?”
Hắn liếc ta một cái, ánh mắt ấy, không giống ánh mắt của một đứa trẻ. Rồi hắn chộp bát, vành môi dính đầy cháo, ngấu nghiến nuốt.
Từ ấy, trên bàn cơm nhà ta thêm một đôi đũa. Cũng thêm một cái bóng trầm mặc.
Đầu thôn có con sông. Mùa hạ, ta kéo hắn đi mò cá. Hắn cúi gằm, xắn ống quần đến tận gốc đùi, đứng lì trong nước nửa ngày không nhúc nhích. Ta ôm cái giỏ tre rách đứng trên bờ nhảy nhót: “Trảm Phong! Bên này! Bên này có con to đang phun bọt!”
Hắn bất thần bổ xuống, nước bắn tung tóe ướt mặt ta. Lúc ngoi lên, trong tay hắn kẹp chặt một con cá trắm còn quẫy đuôi điên cuồng. Trên mặt hắn, rốt cuộc cũng có chút sinh khí.
“Dao Quang! Đỡ này!” Hắn quăng cá lên bờ. Cá giãy đập trên bùn. Ta nhào tới chụp, đuôi cá “bốp” một cái quất ngay mặt, rát bỏng.
Hắn leo lên bờ, nhìn vệt bùn in trên má ta, bèn nhe răng cười. Ấy là lần đầu ta thấy hắn cười—hàm răng trắng loá.
Ngày tháng như con sông đầu thôn, chảy không vội không chậm. Trảm Phong càng lớn càng cao, như trúc xuân trổ đốt—ít lời mà hữu lực. Hắn tiếp quản lò rèn nát của phụ thân, tiếng “keng keng” lại vang. Dân làng cười hắn: “Tiểu thợ rèn, rèn cái cuốc cho ra hồn nhé! Đừng như cha ngươi, một búa hỏng cả đời!”
Hắn chỉ cúi đầu vung búa, tia lửa bắn bốn phía, chẳng đáp nửa lời. Chỉ mình ta biết, liềm hắn rèn vừa sắc vừa dẻo, gặt lúa nhẹ tênh; dao bổ củi hắn rèn chém gỗ cứng chẳng mẻ lưỡi.
Năm mười lăm, làng gặp nạn châu chấu. Trùng tràn trời, gặm sạch hoa màu, gặm trụi cả vỏ cây. Đói—đói đến mức tròng mắt người xanh lét. Làng bắt đầu có người ch//ết: trước là lão, sau là trẻ.
Mẫu thân ta đẩy nửa bát cháo cám cuối cùng cho ta và Trảm Phong. “Ăn.”
Trảm Phong nhìn bát cháo trong veo đến soi được bóng người, yết hầu chuyển động một cái. Hắn bỗng đứng bật dậy, chộp cây búa rèn nặng nhất treo sau cửa.
“Ngươi đi đâu?” Mẫu thân ta hoảng hốt.
“Vào núi.” Giọng hắn cứng như sắt.
“Trong núi có sói! Có gấu!” Ta nhào tới níu cánh tay hắn.
Hắn gỡ tay ta ra, sức mạnh dọa người. “Còn hơn ch//ết đói.”
Hắn không ngoái đầu, lao thẳng vào rừng sâu đang sụp tối.
Đêm ấy, ta ôm gối ngồi trên ngạch cửa, nghe gió núi rền rĩ như quỷ khóc sói gào, tim treo tận cổ.
Tờ mờ sáng, tiếng bước chân nặng nề trở về.
Trảm Phong kéo lê một bên chân đầy m//áu, vai vác nửa mảng thịt lợn rừng còn đỏ lòm. Hắn quẳng phịch miếng thịt xuống sân. Mùi má//u tanh ập tới, khiến người ta muốn lợm giọng.
“Hắn dựa lưng vào khung cửa, trượt ngồi xuống đất, sắc mặt tái nhợt; trên chân rách một vết sâu, thấy cả xương.
‘Dao Quang,’ hắn thở dốc, móc từ lòng ngực ra một bọc vải, nhét vào tay ta, ‘cho ngươi.’
Bọc vải nóng rực, vương nhiệt độ thân hắn. Ta run tay mở ra—vài quả đào rừng đỏ au, căng mọng đến nứt vỏ, mật ngọt ứa như đường.
‘Sói đuổi… ta trèo lên cây lánh… liền trông thấy thứ này…’ Hắn kéo khóe môi như muốn cười, lại đau đến phải hít một hơi.
Ta ôm mấy quả đào rừng còn dính má//u hắn, lệ rơi nặng hạt lên mu bàn tay.
Thịt lợn rừng ấy cứu được nửa thôn.
Chân Trảm Phong, phải tĩnh dưỡng nửa năm mới lành hẳn, để lại một vết sẹo dữ tợn như con rết bám trên đùi.
Hắn vẫn rèn sắt như cũ, vẫn trầm mặc như xưa. Chỉ là ánh mắt nhìn ta đã khác—tựa tàn lửa chôn nơi lòng bếp, trông thì âm ỉ, khẽ khơi là bùng bốc.
Mười bảy tuổi, mối mai dập nát ngưỡng cửa nhà ta.
‘Cô nương Dao Quang mượt mà tươi tốt! Nối với công tử họ Trương mở hiệu lương ở trấn Đông, thật là môn đăng hộ đối!’
‘Nhà họ Lý có nhị lang làm lại dịch nơi huyện nha, ăn bổng lộc triều đình! Dao Quang về đó tất là hưởng phúc!’
Mẫu thân ta nghe mà mặt mày hớn hở. Ta ngồi xổm nơi sân rải thóc cho gà, mi mắt cũng chẳng nhấc.
Tiếng búa của Trảm Phong “đang! đang! đang!” mỗi nhát một nặng, mỗi nhát một gấp.
Chiều hôm ấy, hắn chặn ngoài hàng rào nhà ta. Áo vải thô ướt đẫm mồ hôi dán lên người, vẽ rõ đường vai lưng căng khỏe; ráng chiều dát lên hắn một vòng viền vàng.
‘Dao Quang.’ Hắn gọi.
‘Ừm?’ Ta ngẩng đầu.
‘Đừng gả.’ Giọng không cao, nhưng rơi xuống đất nặng như đá. ‘Hãy đợi ta.’
‘Đợi ngươi việc gì?’
Hắn mím môi, mắt đen như than hồng rực lửa. ‘Đợi ta… khiến ngươi bữa nào cũng được ăn cơm trắng.’
Ta nhìn đôi tay đầy chai sạn và vết phỏng của hắn. ‘Giờ ta cũng ăn no rồi.’
‘Chưa đủ.’ Hắn lắc đầu, lời lẽ như chém sắt: ‘Ta muốn dành cho ngươi điều tốt nhất.’
Trong gió có mùi gỉ sắt, có mùi mồ hôi trên người hắn—lại còn có một thứ gì nóng bỏng khó gọi thành tên.
Hắn không để ta đợi quá lâu.
Sang xuân năm sau, biên thùy khai chiến. Chiếu chiêu binh dán tận đầu thôn: mỗi nhà đều phải rút đinh. Phụ thân ta bị phong thấp, không thể đi. Trong thôn tiếng khóc vang trời.
Trảm Phong không nói một lời, gói manh bọc rách, đến lý trưởng điểm chỉ.
Ngày hắn đi, ta tiễn. Dưới gốc hòe già nơi đầu thôn, đội tân binh dài như một con xà hấp hối. Hắn khoác chiếc áo số không vừa người, lưng thẳng như tùng.
‘Trảm Phong!’ Ta gọi.
Hắn ngoảnh lại. Ta chạy tới, nhét vào lòng hắn một đôi giày đế ngàn lớp ta khâu suốt đêm: ‘Sống mà trở về.’
Hắn siết đôi giày, đốt ngón tay trắng bệch. ‘Ừ.’
‘Nói lời giữ lời chứ?’
‘Giữ.’
Đội ngũ khởi hành, bụi cát mịt mù. Hắn đi được mấy bước, bỗng khựng lại, quay đầu nhìn ta. Qua làn bụi vàng đục, mắt hắn sáng lạ thường.
‘Dao Quang!’ Hắn quát một tiếng, ‘Đợi ta về cưới ngươi!’
Cả đội ầm ầm cười vang. Mặt ta nóng như bốc lửa. Hắn mặc kệ, cứ nhìn chòng chọc như thế, đợi câu đáp của ta.
Gió cuốn cát bay, cay xè khóe mắt. Ta gắng gật đầu thật mạnh.
Hắn cười toe, quay người sải bước đuổi kịp đội, không hề ngoái lại.
Ba năm—bặt vô âm tín.
Có kẻ bảo hắn ch//ết nơi băng thiên tuyết địa phương Bắc; có kẻ nói hắn đào ngũ, đã bị chém đầu.
Phụ mẫu ta thở dài, lại bắt đầu lo liệu mối duyên cho ta. Ta giữ cái lò rèn ngày một xiêu vẹo của hắn, lau cái đe phủ bụi cùng cây búa vương rỉ thay hắn.
‘Hãy đợi thêm ít bữa,’ ta nói với mẫu thân.
‘Đợi gì nữa? Đợi đến khi nhúm xương hắn mục nát dưới đất ư?’ Mẫu thân nóng ruột.
‘Hắn đã hẹn với con rồi.’
Đầu xuân năm thứ tư, binh đao dứt. Đại quân khải hoàn. Tin truyền về thôn: tân hoàng đăng cơ! Là vị thiếu niên tướng quân lẫm liệt, đem tàn binh đánh lui giặc Man!
Trong thôn đèn hoa kết chùm như tết lớn. Không ai còn nhớ gã thợ rèn nghèo bị bắt đi lính năm nào. Chỉ riêng ta, ngày ngày chạy tới gốc hòe đầu thôn ngóng đợi. Từ xuân sang hạ, từ hạ sang thu. Lá vàng rồi rụng.
Hắn vẫn chưa về.
Tàn lửa trong lòng ta, dần dần tắt lịm.”
“Chỉ còn tro lạnh băng.”
Ta bảo với mẫu thân: “Nương, người tùy nghi định liệu.”
Đúng hôm bà mối lại hí hửng tới cửa, đầu thôn bỗng dậy tiếng vó ngựa như sấm. Bụi mù che nhật. Một đội kỵ binh giáp sáng đao thương chói lòa cuộn gió ào vào cái thôn heo hút của chúng ta.
Tướng lĩnh cầm đầu mặt trắng không râu, mục quang sắc như đao. Hắn ghì cương, cao cao tại thượng, giọng the thé: “Nơi đây, có một vị cô nương Dao Quang chăng?”
Cả thôn sợ đến ngây dại, chen chúc ngoài hàng rào xiêu vẹo nhà ta. Phụ thân ta run lẩy bẩy bước ra: “Quan… quan gia… tiểu nữ… tiểu nữ chính tên Dao Quang…”
Tướng kia thoăn thoắt xuống ngựa, động tác gọn ghẽ. Hắn đi thẳng đến trước mặt ta, tỉ mỉ dò xét, ánh mắt như kẻ ngoài chợ chọn gia súc. Rồi bỗng khom lưng, dâng một đại lễ!
“Mạt tướng Truy Ảnh, phụng Thánh mệnh, nghênh nương nương phượng giá hồi cung!”
Nương nương? Phượng giá?
Ta như bị lôi đình đánh trúng, sững sờ tại chỗ. Đám người xôn xao như vỡ chợ. Mẫu thân ta thì ngã quỵ bất tỉnh.
Truy Ảnh đứng thẳng dậy, vung tay. Phía sau lập tức khiêng vào mấy rương gỗ đàn nặng trĩu. Nắp mở—kim quang chói lóa! Gấm vóc lụa là hoa mắt! Châu ngọc mã não chất như đá cuội!
“Đây là sính lễ Hoàng thượng ban nương nương.” Giọng Truy Ảnh bình đạm như nước, “Xin nương nương lập tức khởi giá.”
Ta nhìn đống phú quý lóa mắt ấy, lại ngẩng trông mái tranh thấp lè tè nhà mình, liếc hàng áo rách phơi trên hàng rào.
“Trảm Phong đâu?” ta hỏi.
Mày Truy Ảnh khẽ nhíu: “Thánh thượng kim huý, nương nương xin thận ngôn.”
“Hắn ở đâu?” Ta nhìn chằm chằm hắn.
“Thánh thượng tọa trấn Kinh sư, nhật lý vạn cơ, đặc sai mạt tướng cung kính nghênh nương nương.”
Phụ thân ta như chợt bừng tỉnh, nhào tới ép ta quỳ xuống: “Tạ chủ long ân! Tạ chủ long ân a!” Trên mặt ông là lệ mừng điên cuồng, nước mũi nước mắt tèm lem. “Con gái! Là Trảm Phong! Là Trảm Phong đăng cơ rồi! Hắn rước con nhập cung làm nương nương! Tổ phần nhà ta khói xanh bốc thẳng trời rồi!”
Ta bị ông ấn xuống, trán chạm nền đất lạnh buốt. Mùi bùn lùa thẳng vào mũi. Ta từ từ ngẩng đầu, ngắm dung diện công nhiên quan liêu của Truy Ảnh.
“Ta không đi.”
Thánh chỉ đã tới. Ta lại khước từ.
Cả thôn run rẩy trong tiếng khóc và kinh hoàng của nhà ta.
“Tru cửu tộc”—ba chữ ấy đè xuống như núi.
Ta tự nhốt mình trong lò rèn nát của Trảm Phong. Bụi bay múa trong cột sáng. Ta sờ lên cái đe lạnh ngắt, tưởng như còn vương nhiệt độ lòng bàn tay hắn.
Cửa kèn kẹt mở. Một bóng người đứng ngược sáng ở ngưỡng. Dáng cao lớn, che lấp quá nửa quầng sáng. Hơi thở quen thuộc, lại xa lạ khôn cùng.
Ta không quay đầu.
“Dao Quang.”
Giọng hắn đã đổi: trầm, nghiêm, mang sức đè nén của kẻ cửu ngũ chí tôn. Không còn là thiếu niên bờ sông ôm cá, nhe răng gọi tên ta.
“Thánh chỉ, đã thấy chứ?” Hắn bước vào, bộ hành trầm ổn giẫm lên nền bụi. Tà long bào đen thêu kim văn quét qua bậc cửa.
“Thấy rồi.” Ta dán mắt vào một vết lõm cũ trên mặt đe.
“Vì sao không tiếp?”
Hắn dừng cách sau lưng ta một bước—quá gần. Ta ngửi thấy mùi long diên hương xa lạ trên người hắn, lấn át ký ức về mùi gỉ sắt và mồ hôi.
“Không muốn tiếp.”
“Không muốn?” Hắn như nghe chuyện tiếu lâm, khẽ hừ một tiếng. “Dao Quang, ấy là phượng vị. Nữ nhi thiên hạ, mộng tưởng cầu không được.”
“Ta không nằm mơ.” Ta xoay người, rốt cuộc đối diện hắn. Lông mày như kiếm, mắt như sao, đường nét càng sâu càng cứng, tựa búa rìu đẽo gọt. Trong mắt đen thăm thẳm cuộn những điều phức tạp ta nhìn chẳng thấu. Chỉ có bờ môi mím chặt, còn phảng phất nét cố chấp quen thuộc.
Hắn không còn là Trảm Phong. Hắn là Hoàng đế.
“Vì cớ gì?” Hắn hỏi, mục quang sắc tựa xé toang ta.
“Trong cung ngươi thiếu nữ nhân ư?”
Ánh mắt hắn tối đi: “Ngươi biết ta chẳng vì điều ấy.”
“Vậy là vì gì? Thương hại ta?” Khóe môi ta giật nhẹ. “Hay ngươi cho rằng câu nói năm xưa đầu thôn là kim khẩu ngọc ngôn, không thể nuốt lời?”
Hắn bỗng bước sấn tới, bóng hình cao lớn phủ trùm cả ta.
“Bởi ta đã hứa với ngươi!” Tiếng hắn nén giận, “Ban cho ngươi điều tốt đẹp nhất!”
“Đây là ‘tốt đẹp nhất’ ngươi nói ư?” Ta chỉ ra cửa, như xuyên tường thấy những rương sính lễ chói mắt kia. “Nhốt ta trong chiếc lồng đúc bằng vàng? Mỗi ngày phải trước mặt ngươi ba quỳ chín lạy? Lại trơ mắt nhìn tam cung lục viện của ngươi?”
Hắn chụp cổ tay ta, lực mạnh như kìm sắt: “Sẽ không có kẻ khác!” Hắn nghiến răng…
“Mỗi một chữ đều như nặn ra từ kẽ răng: ‘Ta đã nói, đợi ta về cưới ngươi! Chỉ mình ngươi!’”
Cổ tay bị hắn siết đến rát buốt. Ta nhìn cơn cuộn dâng trong mắt hắn—có phẫn nộ, có chẳng hiểu, lại có một thứ chấp niệm gần như điên cuồng.
“Trảm Phong,” lần đầu ta gọi cái tên ấy, khó nhọc vô cùng, “hãy thả ta đi.”
Thân hắn bỗng khựng lại. Cơn bão trong mắt đông cứng thoáng chốc, rồi vụn vỡ từng mảnh.
“Thả ngươi?” Hắn nhắc lại, giọng nhẹ đến đáng sợ. “Dao Quang, ta đợi bốn năm. Lúc bò ra khỏi đống xác chết, ta nghĩ đến ngươi. Giữa băng thiên tuyết địa, sắp bị rét cắt mà chết, ta nghĩ đến ngươi. Khi xách thủ cấp thủ lĩnh Man tộc đứng trên lầu thành, ta nghĩ đến vẫn là ngươi! Bây giờ, ngươi bảo ta thả ngươi?”