Kinh Thành Yên Vũ
Chương 1
1.
Thần Vương Lý Cẩn Huyền thuở trước từng là hoàng tử được tiên đế hết mực sủng ái.
Câu thơ “Cử chén ngước mắt nhìn trời xanh, dáng tựa ngọc thụ giữa gió lành” chính là hình dung chân thực về hắn.
Hắn tuyệt chẳng tham luyến sắc đẹp, vì bản thân hắn vốn đã đủ mĩ mạo, danh xưng “Mĩ Hiền Vương” vang khắp kinh thành.
Ấy thế mà hắn lại từng nghiêng mình bên khung cửa lầu Quỳnh Tiên, lặng lẽ ngắm nhìn một cô nương hát dạo bên đường thật lâu.
Lâu đến nỗi tiếng tỳ bà ca vũ trên yến tiệc dần tắt, các bậc quý nhân đồng ẩm không nhịn được mới quay sang hỏi hắn cớ sao thất thần.
Hắn chỉ khẽ quay đầu, nhấp một ngụm rượu, rồi nhẹ buông lời thở dài: “Dễ nghe.”
Những ai đủ tinh ý để được cùng Thần Vương đối ẩm đương nhiên hiểu rõ hắn tấm tắc khen ngợi điều gì.
Tất cả bọn họ đều biết hai chữ “dễ nghe” của Thần Vương quyết không phải dành cho hoa khôi Cô Tô được mời đến góp vui.
Mà chính là dành cho cô nương áo quần lam lũ, đứng ven đường cất giọng ca bán nghệ kia.
Vốn dĩ quyền quý và thứ dân cách nhau một trời một vực.
Ta sở dĩ hay tin được chuyện Thần Vương ngồi trên lầu Quỳnh Tiên đó, là bởi tối hôm ấy khi ta thu dọn gánh hát xong, có một vị quý nhân đã chặn đường ta.
Ông ấy săm soi ta hồi lâu, sau đó ngỏ ý muốn mua ta về làm ca cơ, lại còn trả thẳng năm trăm lượng vàng.
Phu quân ta – Lâm Kỳ – khi ấy ngồi nghe ta hát suốt nửa ngày, trơ mắt nhìn ta hát đến khản giọng cũng chỉ kiếm được dăm ba đồng cắc. Vậy mà nghe thấy con số năm trăm lượng liền sững sờ, mồm há hốc.
Đêm ấy, hắn chuẩn bị tươm tất cho ta, rồi đem ta ném vào phủ của vị quý nhân, một mình ôm bạc cao chạy xa bay.
Vị quý nhân mua ta là hiền tế của Trung Dũng hầu, họ Chương, đương nhiệm Hồng Lư Tự Khanh.
Trong phủ Chương đại nhân, nhũ mẫu già còn dữ hơn cả bà bà năm xưa của ta, ra tay cũng không vừa.
Mắng ầm lên rằng ta không được phép khóc, ấn đầu ta xuống bồn tắm, kỳ cọ đến nỗi suýt tróc một lớp da. Tóc tai thì chải vuốt đến từng kẽ sợi, lại còn nghi ngút xông hương đến ba lần mới tạm yên.
Phu nhân Chương đại nhân nghe ta hát xong, bèn quẩn quanh ngắm nghía ta, thảng thốt hỏi đi hỏi lại:
“Đúng là nhìn đẹp thật, giọng ca cũng ngọt, nhưng ngươi chắc chắn Thần Vương điện hạ sẽ thích kiểu cô nương quê mùa một chữ bẻ đôi không biết này ư? Bảo họ nói chuyện gì kia chứ? Chẳng lẽ chỉ nghe hát rồi… ắt không thể thế được…”
Dẫu bà kịp đưa tay bụm miệng, hai gò má cũng đã ửng đỏ vì thẹn, chẳng nói thêm nữa.
Vốn là thiên kim tiểu thư được dạy dỗ khéo léo, Chương phu nhân không khỏi giữ lễ “phi lễ chớ nói”.
Trong mắt bà, Thần Vương vốn cao quý tựa tuyết đầu xuân, dù có đặt chân chốn phong nguyệt cũng chỉ nên giao tiếp với danh kỹ cầm kỳ thi họa, tài hoa xuất chúng.
Chứ nào đến lượt ta, một kẻ chỉ biết hát mấy câu dân ca quê mùa.
Vậy mà Chương đại nhân tựa hồ rất tự tin, một mặt dỗ dành phu nhân:
“Nàng cứ yên tâm trăm bề. Chỉ có nam nhân mới hiểu rõ nam nhân nhất.”
Một mặt lại dặn ta:
“Ngàn vạn lần đừng để lộ chuyện ngươi từng có chồng. Vậy thôi.”
Sau đó ông lập tức bày tiệc, sắp xếp cho ta lên sân khấu, dùng giọng Ngô âm hát khúc “Tử Trúc Điều” mà ta đã cất hôm nọ cho Thần Vương điện hạ nghe:
“Tử trúc nở rộ tháng bảy qua,
Muội ơi hái hoa, rộn ràng sơn nha.
Tay xách giỏ trúc, thân khoác áo trúc,
Rực rỡ hoa trúc nở trước ngực ta.
Hái khắp núi này rồi sang núi nọ,
Tựa bướm lượn hoa, xập xòe muôn hoa.
Hái khắp núi này rồi sang núi nọ,
Tựa bướm lượn hoa, xập xòe muôn hoa…”
Thực ra, chẳng riêng Chương phu nhân thấy lo, ta còn thấp thỏm hơn bà gấp bội.
Nhưng ta nào dám lơ là, bởi chọc giận quý nhân thì mất mạng như chơi.
Thế nên ta vừa liều mạng dốc giọng hát, vừa chột dạ trong lòng.
Đáng tiếc, ta hát liền năm sáu khúc, Thần Vương điện hạ vẫn chỉ khẽ rũ mi, thong dong nâng chén, không liếc ta lấy một lần.
Chương phu nhân đưa mắt nhìn ta, có phần vừa thương hại vừa tỏ vẻ “đã liệu trước”, lại thêm mấy phần chán ghét Chương đại nhân vì muốn nịnh bợ quyền quý mà đâm đầu bừa.
Ta cố nhịn không bật khóc, mím môi nhận lệnh lui xuống.
Chạy vội về đến hậu viện, chân tay bủn rủn, ta quỵ xuống đất, ngước lên trời nguyệt tỏ, thầm cầu được sống an lành qua tuổi mười sáu.
Ta từ bé đã mồ côi cha mẹ, lên năm tuổi thì bị cô ruột bán cho nhà họ Lâm ở thôn bên làm dâu nuôi từ thuở nhỏ.
Đói khát rét mướt, vất vả trăm bề, còn phải chịu đủ đòn roi mắng nhiếc của bà bà. Nhưng ta không sợ, chỉ cầu mỗi ngày có được bát nước rửa nồi mà húp.
Nghe người lớn bảo “chế/t sạch không bằng cố sống”, mọi kẻ đều sợ chế/t, ta cũng sợ.
Nhưng Chương đại nhân đã bỏ ra năm trăm lượng mua ta, rốt cuộc mất công lại chẳng được gì, ắt ta không thoát nổi tai ương.
Ta thì xong đời, sợ rằng Lâm Kỳ cũng chẳng có mệnh hưởng hết số bạc kia.
Ta hãi lắm, sấp mình cầu khấn trời xanh. Nếu chịu cực chịu khổ, hoặc mất tay cụt chân ta cũng chẳng ngại, chỉ xin được giữ mạng để sống tiếp.
Ta dập đầu không ngừng, đến nỗi trán rớm máu, vậy mà cũng chẳng thấy đau.
Không biết bao lâu trôi qua, bỗng nghe phía trên có tiếng cười khẽ vang vọng:
“Còn chưa được sủng ái, đã vội tạ ơn sao?”
Nghe tiếng ù ù bên tai, ta còn đang run rẩy thì một đôi tay lớn bất chợt vững vàng đỡ ta dậy.
Dưới ánh trăng, hoa bóng lung linh, thoảng mùi rượu phảng phất.
Thần Vương điện hạ tựa hồ hơi ngà say, cũng chẳng buồn giấu đi ý cười có phần trêu đùa trong mắt.
Ta khép hờ mi, hiểu rằng mạng mình tạm thời giữ được. Thế là tốt lắm rồi.
“Một cành trúc tím vươn măng non,
Gửi tặng ca ca làm ống tiêu son.
Tiêu ghé bên miệng, miệng kề bên tiêu,
Tiếng tiêu buông khúc xôn xao diễm kiều.
Hỏi ca ca ơi, cây tiêu này liệu có hay?
Hỏi ca ca ơi, cây tiêu này liệu có hay?”
Đêm ấy, ta cứ lăn qua lộn lại, hết lần này đến lần khác, cất khúc “Tử Trúc Điều” hầu hạ Thần Vương điện hạ.
Mãi cho đến khi trời phương đông ửng sáng.
2.
Đối với Chương đại nhân, chỉ cần có thể giữ chân Thần Vương điện hạ qua một đêm, bấy nhiêu đã đáng giá bốn trăm tám mươi lượng trong năm trăm lượng bỏ ra.
Bởi lẽ, kiểu “sơn dã dã thú” như ta, quý nhân ăn một lần để thử lạ miệng thì được, chứ ăn mãi ắt sinh chán ngán.
Ông ta sớm đã bàn với phu nhân, quyết ý nuôi ta trong phủ làm ca cơ, khi nào Thần Vương chợt nhớ vị “dã vị” ấy thì lại dâng ta lên một bữa.
Còn ta, kẻ quen ba ngày đói chín bữa và khổ sở rã rời, nay gặp được “giấc mộng xa xỉ” như thế, thử hỏi sao dám đòi hỏi gì thêm.
Vì vậy, khi Thần Vương điện hạ mới chợp mắt một lát liền muốn dậy, ta tức khắc nhẫn đau mỏi gắng gượng bò lên, hầu hắn thay y phục, chuẩn bị tiễn hắn rời đi.
Nào ngờ, chẳng biết vì say mê “Tử Trúc Điều” hay vì luyến lưu ta, hắn lại nắm lấy tay ta thật chắc khi ra cửa, thản nhiên dắt ta đi cùng.
Đến lúc đụng mặt Chương đại nhân đã đứng hầu đợi hồi lâu, hắn cũng không dừng bước, chỉ lạnh nhạt buông một câu:
“Ta đem người đi. Ngươi làm rất tốt.”
Thế là Chương đại nhân lập tức trở thành kẻ đầu tiên ở kinh thành dâng được mỹ nhân lên giường Thần Vương thành công, lại còn lên đời thành kẻ “đưa người vào hậu viện Thần Vương phủ” đầu tiên.
Ông ta vui mừng đến cuồng xiết.
Từ nay về sau, không chỉ là hiền tế của Trung Dũng hầu, mà còn là tâm phúc của Thần Vương.
Đến nhạc phụ ông ta gặp ông cũng phải nể nang đôi phần, chẳng dám hống hách như trước nữa.
3.
Ta chỉ thực sự hiểu được vì sao Thần Vương điện hạ, bề ngoài phong quang chính trực tựa bầu trời quang đãng, lại hứng thú với ta – một kẻ quê mùa – sau khi cùng hắn về đến vương phủ.
Hắn nói, khúc “Tử Trúc Điều” đêm ấy khiến hắn nhớ lại ba năm trước, khi phụng mệnh tuần tra phủ Bình Giang, bị thích khách ám sát ở Cô Tô.
Bấy giờ, kẻ đi theo hắn chết thì nhiều, tan tác cũng nhiều. Muốn cắt đuôi truy binh, hắn cùng một tâm phúc còn lại nhảy xuống dòng Sở Giang dưới vách núi, lặn thật sâu dưới nước, rồi luồn lách rất lâu mới dám lên bờ.
Sợ bại lộ tung tích, hắn đành trốn tạm trong chuồng gà nhà nông, đợi đến đêm khuya vắng người hẵng tìm vào bếp kiếm chút gì lót dạ, dẫu chỉ là bát nước rửa nồi cũng được, vì hắn đói đến lả.
Đúng lúc hắn thấp thỏm chờ người nhà đó đi ngủ, chợt nghe thấy một đứa con dâu nuôi khóc lóc cầu xin bà bà rủ lòng thương.
Nó bảo đã một ngày chưa được ăn gì, sợ rằng nếu đói lả mà ngủ quên luôn, sáng mai không dậy nổi để hầu hạ bà bà, lại phiền bà bà phải bỏ công vứt xác, dơ tay bà bà.
“Ngươi là con ma đói đầu thai à, hở tí là kêu gào đòi ăn!”
Bà bà quát mắng om sòm một hồi, cuối cùng cũng bố thí cho đứa con dâu nửa bát nước rửa nồi:
“Trong đó còn kha khá cơm cháy đó, đủ cho cái thứ xương xẩu nhà ngươi no bụng rồi.”
Đứa bé kia cảm tạ rối rít, bưng bát nước nguội ngắt lên húp ừng ực, hoàn toàn không hay biết có kẻ trốn đằng sau cái chạn đang rình rập.
Mãi đến khi hắn vô ý giẫm phải thanh củi, vang lên tiếng động quá lớn trong đêm tối tĩnh mịch, đứa bé mới giật thót, trố mắt nhìn chàng, sợ đến mức đứng đờ ra.
Nghe động tĩnh, bà bà lại lớn giọng chửi bới.
Khi ấy, Thần Vương dẫu mang thương tích cũng suýt nổi sát tâm để bịt đầu mối.
Chợt thấy đứa bé nọ liếc vết máu trên ngực hắn, rồi rủ rỉ cất giọng hát, giọng Ngô âm uyển chuyển, như đang nịnh nọt bà bà hiền lương nhân ái, chẳng khác Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
Hắn nghe không hiểu nhiều, chỉ thấy âm thanh trong trẻo êm tai. Bà bà vì thế bớt mắng, chỉ buông lời:
“Con nhãi ranh, cẩn thận đấy! Nếu làm vỡ bát, ta lột da ngươi!”
Sau đó, đứa bé kia không chỉ chia cho hắn nửa bát nước rửa nồi, mà còn cẩn thận giấu hắn trong một hang núi phía sau thôn, đêm đêm mang nước rửa nồi cùng chút thảo dược tán nhuyễn đến băng bó vết thương cho hắn.
Cứ thế dăm bữa, hắn mới tường tận rằng mỗi lần đứa nhỏ ấy mệt mỏi hay sợ hãi lúc đi đêm, hoặc muốn lấy lòng bà bà để xin chút đồ ăn, nó đều hát cùng một làn điệu nhưng đổi lời liên tục. Khúc dân ca quê Cô Tô ấy gọi là “Tử Trúc Điều.”
Đúng vậy, năm ấy ta mười ba tuổi, đã làm dâu nuôi nhà họ Lâm suốt tám năm, vốn lão luyện kinh nghiệm.
Biết cách nào không chọc đến cơn giận của bà bà, khi nào mở miệng xin ăn thì có thể không bị tẩn.
Về phần chửi bới, đối với ta chỉ như cơm bữa.
Hôm đó ta cứu hắn, thực ra là muốn mau mau đuổi “của nợ” ấy đi, kẻo lộ ra thì ta xui xẻo.
Nhà họ Lâm mất con gà, con chó thôi cũng đổ tội sang đầu ta, huống hồ tự dưng xuất hiện một nam nhân lạ mặt, bà ta nhất định nện ta nát xương.
Thứ nữa, thấy hắn tướng mạo tuấn tú, lại đang chảy máu, trông có vẻ đáng thương.
Ta cũng từng vào núi nhặt về mấy con chim, con chồn bị thương. Đều là một mạng, có gì khác nhau đâu.
Ai ngờ kẻ chưa khỏi hẳn thương tích ấy đột ngột biến mất không lời từ biệt, hóa ra lại là Thần Vương điện hạ.
Chả trách hôm nay gặp mới thấy hơi quen mắt.
Lại càng không ngờ hắn là kẻ trọng tình nghĩa như thế.
Thì ra vận may của ta đã đến.
4.
Thần Vương đứng hàng thứ ba trong các hoàng tử, nên ta hay gọi hắn là “Tam Lang” theo yêu cầu của hắn.
Mỗi lần cất tiếng mềm mại như giọng Ngô âm gọi “Tam Lang”, hắn đều vui mừng khôn xiết.
Đêm đêm hắn lưu lại “Tử Trúc Viện” – nơi ta ở – chẳng dời nửa bước, vô số y phục, thức ăn mà cả đời ta chưa từng thấy lần lượt được đưa tới.
Vậy mà hắn lại luôn nhắc nhở, muốn nếm lại hương vị “nước rửa nồi” với “thịt ếch nướng” năm xưa ta từng cho hắn ăn.
Đến lúc không nhịn được, ta chỉ biết len lén quay đi, âm thầm bĩu môi.
Hết ngày ngon rượu thịt mà còn đòi hoài niệm khốn khổ ngày xưa, hắn nếu thật nếm lại thì e nôn thốc nôn tháo ra mất.
Không chỉ thế, lớp vỏ hào nhoáng nơi hắn đang tô vẽ cho ký ức cũng sẽ sụp đổ hoàn toàn: nghèo đói chính là nghèo đói, khốn khổ không gì đẹp đẽ mà hoài niệm.
Tất nhiên, ta chẳng dại nói thế với hắn.
Chỉ giả vờ thổ lộ rằng ta không muốn chạm tới những vết thương cũ, mong trân quý hiện tại hạnh phúc bên hắn từng ngày như một giấc mộng ngọt ngào, ngộ nhỡ có ngày phải quay lại bần hàn, chí ít vẫn còn ký ức đẹp làm chỗ dựa nương.
Hắn lập tức động lòng, xiết ta vào lòng thủ thỉ:
“Âm Âm ngốc ơi, ta nhất định khiến nàng luôn được hạnh phúc, không để ai làm thương tổn nàng nữa.”
Để hắn giữ khư khư những rung động ấy, ta mới có đường sống an ổn và tương lai sáng sủa hơn.
Dù vậy, Thần Vương phủ đâu chỉ có một mình ta.
Hắn thân phận tôn quý, đường đường là một vị Vương gia. Cho dù xưa nay không ái sắc, chốn hậu viện chẳng thể chỉ trống không.
Trong phủ sớm đã có một Vương phi chính thất, xuất thân cao sang, đường đường chính phẩm.
Còn ta, chỉ là một thiếp hầu.
Hắn đưa ta về phủ, việc đầu tiên là lựa chọn thật kỹ, cuối cùng phái Xuân Đào – cháu ruột nhũ mẫu của hắn – đến hầu hạ bên ta.
Xuân Đào nhiệt tình, hiểu rõ mọi nẻo trong phủ, thường nửa đêm vắng người thì níu tay ta thủ thỉ:
“Vương phi Tiêu thị xuất thân thế gia đất Ngọc Lâm, học cao hiểu rộng, khéo dùng thuật ‘chế ngự kẻ dưới’, lại thêm tài cầm kỳ thi họa. Nàng ấy trong như sương, khó gần lắm, muốn đối phó cũng chẳng dễ đâu…”
Ta cũng học điệu bộ nàng ấy mà khẽ thở dài, trong lòng thì âm thầm cười lạnh:
“Khó nhằn đến đâu, chắc gì đã khó bằng bà bà năm xưa?”
Lẽ đời, kẻ nắm chút quyền lực thường dễ bề hà hiếp kẻ không thể phản kháng.
Bà bà của ta khi xưa nghèo hèn, đến hàng xóm cũng không dám ho he, chỉ duy nhất có ta là chỗ để bà tùy ý giày vò. Bà hãm sâu trong khoái cảm áp chế kẻ yếu, ngày càng độc ác ngang ngược, thủ đoạn lại tầm thường thô bạo.
Những năm tháng ở nhà họ Lâm là cơn ác mộng lớn nhất đời ta, mỗi khi nghĩ tới đều rùng mình.
Ta nghĩ, có khi càng sinh trưởng trong quyền quý, người ta lại càng biết kiểm soát hành vi, không dễ dùng cách tàn nhẫn trắng trợn, tối thiểu vẫn phải giữ vẻ cao sang.
Như Chương phu nhân, ngay cả lời thô tục còn chẳng dám nói ra.
Huống chi Vương phi Thần Vương vốn càng cao quý hơn, ắt hẳn càng chú trọng thể diện, càng không hạ mình làm khó dễ một thiếp hầu nho nhỏ như ta.
Đương nhiên, “thuật chế ngự kẻ dưới” của nàng ắt cao minh hơn, song với ta mà nói, chỉ cần không phải kiểu ác độc lộ liễu bỉ ổi thì ta ít sợ hơn nhiều.
Có khi nhờ đối diện được với thủ đoạn cao minh của Vương phi, ta còn rèn giũa thêm bản lĩnh sống.
Nếu ta không gánh nổi, mất mạng dưới tay nàng, ắt là do số ta không may.
Thế nên ta thản nhiên đứng trước viện của Vương phi, xin bái kiến từ rất sớm.
Nào ngờ chờ mãi vẫn chưa thấy Vương phi sai người thông truyền, bỗng nghe sau lưng ồn ào kéo tới một đám đông.
Đi đầu là một tiểu thư diễm lệ phục sức hoa mỹ, sau lưng nối gót cả bầy nha hoàn bà tử, người nào cũng bưng khay lễ vật.
Khi ngang qua chỗ ta, nàng ta hờ hững buông một câu:
“Hẳn đây chính là ‘tân sủng’ của Vương gia?”
Tuy hỏi ta, nhưng nàng ta không thèm liếc mắt lấy một lần, cứ thế nhấc váy bước thẳng lên bậc thềm.
Đám nô tỳ theo sau khẽ rì rầm:
“Tân sủng gì chứ, chỉ là con hát quê mùa biết dăm ba câu dân ca, nhất thời khiến Vương gia hứng thú thôi. Kinh thành đồn ầm cả lên, nói ả đúng là loại mê hoặc nam nhân, bằng không đâu dễ quyến rũ được Thần Vương.”
Người cuối cùng đi qua là một bà vú già, đưa cặp mắt đục ngầu đảo quanh người ta, cười khẩy:
“Ta khuyên ngươi từ đâu đến thì lăn về đó đi. Hạng thấp hèn thế này mà cũng đòi đến bái kiến Vương phi ư?”
Bọn họ thế trận hùng hổ kéo lên bậc thềm trước sân, cùng quay mặt vào trong, chẳng buồn liếc ta, chỉ thỉnh thoảng bật ra vài tiếng cười giễu.
Loại châm chọc này với ta chẳng khác gãi ngứa, chẳng xi nhê gì.
Bà bà cũ của ta xưa chửi còn khó nghe hơn nhiều.
Nhưng Xuân Đào thì tức đến nghiến răng kèn kẹt, nhìn chằm chằm nhóm người kia, ghé sát tai ta thì thào:
“Đó là Nhị tiểu thư họ Từ ở nhà Thượng thư Lễ bộ, nàng ta mấy năm nay muốn gả vào Vương phủ làm trắc phi, nhưng Vương gia không đoái hoài. Thế là ba ngày hai lượt tới nịnh Vương phi.”
Thế thì dễ hiểu.
Món ngon nàng khao khát mãi không được lại bị ta nếm trước, có uất ức cũng không khó hiểu.
Ta không muốn rắc rối thêm, định rón rén lui đi.
Bỗng cánh cổng viện hé mở, một nữ tỳ bước ra, tách đám đông, đến trước mặt ta hành lễ:
“Liễu kkkphu nhân, Vương phi mời người vào.”
Nói rồi dẫn ta đi vào, băng qua đám người đang đứng chật bậc thềm.
Từ đầu đến cuối, nàng chẳng buồn nhìn Nhị tiểu thư nhà họ Từ lấy một khắc, khiến ả ta giận đến trừng mắt, rồi rốt cuộc không nhịn được cất tiếng hỏi:
“Kinh Trực tỷ tỷ, hôm nay Vương phi không muốn tiếp ta sao?”
Cô nương được gọi là Kinh Trực quay lại, từ tốn cười:
“Liễu phu nhân là ân nhân cứu mạng Vương gia. Vương phi và Vương gia vốn một thể, lẽ nào không mời ân nhân vào ngồi chuyện trò vui vẻ? Nhị tiểu thư xin mời về, kẻo quấy rầy cuộc hội ngộ này.”
Nhị tiểu thư Từ mặt mày tái mét, cơn phẫn hận hiện rõ.
Còn ta thì trong lòng chợt lạnh.
Quả không hổ danh tiểu thư thế gia, chủ tu “thuật chế ngự kẻ dưới,” thủ đoạn dùng người nhẹ nhàng mà đanh thép.
Ta quay lưng với ánh mắt căm hờn của Từ nhị tiểu thư, mỉm cười tiến vào chính sảnh.
Nơi ấy, Vương phi đang đứng trước án cắm hoa, đưa kéo cắt tỉa một chậu hoa tươi.
Ta lập tức hành lễ sâu, cung kính cất giọng:
“Tham kiến Vương phi, chúc Vương phi vạn phúc kim an.”