Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và
Mở Ứng Dụng Shopee để mở khóa toàn bộ chương truyện!
Sao Anh Vẫn Chưa Đến Dỗ Em?
Ngoại truyện
1
Chúng tôi về đến Lâm Thành vào buổi chiều muộn, trước tiên ghé qua thăm bố mẹ tôi. Nhìn di ảnh trên bia mộ, cuối cùng tôi cũng hiểu mình thừa hưởng đôi mắt, hàng mày từ ai. Họ giống hệt như tôi vẫn mường tượng—mẹ hiền hòa ấm áp, bố nghiêm nghị đĩnh đạc. Dâng hương xong, tôi bảo mọi người xuống trước, còn lại một mình ngồi cạnh mộ phần nói hết những chuyện xảy ra trong năm năm qua.
Đến lúc xuống núi, khóe mắt tôi đã ráo khô, chỉ còn bám đầy mùi khói hương trên áo.
Nhưng nhìn khung cảnh mỗi lúc một quen thuộc trước mặt, lòng tôi vẫn thấy trống trải, như thể còn thiếu một mảnh ghép nào đó.
Tôi cảm giác mình đã quên một chuyện vô cùng quan trọng.
Đội trưởng Vương đưa chúng tôi về căn nhà của bố mẹ—một khu chung cư cũ nhưng tiện nghi đầy đủ. Vừa mở cửa, bụi li ti bay mờ mịt.
“Bụi thế này… khụ khụ khụ…”
Tôi bước tới bức tường nơi treo tấm ảnh gia đình cỡ lớn. Trong ảnh, tôi mặc cảnh phục, tay ôm bố mẹ. Cả ba cười rất tươi, trông thật đầm ấm. Nhưng tôi vẫn thấy hình như mình đã bỏ lỡ điều gì đó.
Tôi và Diệp Ninh cùng dọn nhà. Khi ra ban công, thấy chiếc xe đạp leo núi cũ, đầu óc tôi bỗng lóe lên một hình ảnh: dưới nền trời xanh biếc, một cậu con trai chở sau lưng cô gái nhỏ vẫn say ngủ, trông cô mềm yếu đến xót xa.
Hình ảnh chỉ lóe lên trong thoáng chốc.
Chúng tôi tìm ra rất nhiều ảnh cũ thời thơ ấu, Diệp Ninh xem thích mê, còn tôi chẳng thấy gợn chút cảm xúc. Lúc gần dọn xong, cô nhờ tôi đi siêu thị mua đồ. Tôi hoàn toàn không biết siêu thị chỗ nào, vậy mà vừa xuống nhà, tôi lại quẹo phải một cách vô thức, tay phải dường như chìa ra như để nắm lấy thứ gì đó.
Cứ như đã nằm trong dự liệu, tôi vừa rẽ vào ngõ hẹp đã trông thấy một siêu thị nho nhỏ.
Bà chủ siêu thị vừa nhìn thấy tôi thì sững sờ:
“Tiểu Nam, cuối cùng cháu cũng về. Cháu đâu biết Niệm Nhất chờ cháu bao lâu rồi.”
Bà còn nói rằng, sau khi tôi đi, bà vẫn thấy Mạnh Niệm Nhất một mình ngồi ở cửa siêu thị, mỗi lần bà hỏi “Sao lại không đi cùng cậu ấy?” thì Niệm Nhất chỉ cười cười, nói: “Lần sau.”
Nhưng lần nào cũng chỉ có mình cô ấy. Có khi đang nói, cô bé lại đỏ hoe mắt. Bà bảo chưa từng gặp cô gái nào khiến người ta xót xa đến vậy, bảo tôi đừng cãi nhau với cô ấy nữa, hãy sống tốt với nhau.
Bà chủ siêu thị vẫn nói, nhưng tôi không biết đáp lời ra sao.
Trí não tôi thoáng hiện những khung cảnh lẻ tẻ về Mạnh Niệm Nhất: cô nắm tay tôi, luyên thuyên chuyện tương lai chúng tôi sẽ sống thế nào; hay lúc cô nhìn tôi, ánh mắt, khóe môi đều đong đầy yêu thương…
Nhưng giờ tôi đã có Diệp Ninh, còn Mạnh Niệm Nhất thì cũng bắt đầu một cuộc sống mới. Cho dù chúng tôi từng có gì đó, chắc cũng… qua lâu rồi.
Như thể chạy trốn, tôi chỉ mua vài thứ lặt vặt rồi rời siêu thị thật nhanh.
Không hiểu sao, vừa nghĩ đến chuyện Mạnh Niệm Nhất có lẽ sẽ hoàn toàn biến mất khỏi đời mình, lồng ngực tôi bỗng nhói đau vô ngần.
Tôi châm điếu thuốc, đứng bên đường ngắm nhìn thành phố này—vừa quen thuộc vừa xa lạ—trong lòng chẳng sao diễn tả nổi, chỉ muốn mau chóng rời khỏi đây, quay về hòn đảo ấy.
Hút xong điếu thuốc, vừa lúc xe buýt số 25 dừng trước mặt. Tôi không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào lại bước lên. Trên xe toàn học sinh tan trường, tóc cắt đồng loạt, mặc đồng phục xanh trắng. Trong ký ức mơ hồ, dường như ai đó cũng mặc bộ đồng phục như vậy và ngồi cạnh cửa sổ.
Tôi ngỡ thấy cô gái 18 tuổi tên Mạnh Niệm Nhất đang vẫy tay, bảo tôi mau qua chỗ cô, giảng bài cho cô.
Tuyến này có 13 bến, nhưng khi xe dừng ở ngã rẽ Sơn Dương, tôi lại xuống. Phía trước là một khu chung cư mới tên “Trường An Khang Thành”, khiến tôi thấy quen thuộc kỳ lạ.
Vừa định đi vào, điện thoại Diệp Ninh gọi đến. Tôi bèn vẫy taxi quay về. Trong gương chiếu hậu, khu chung cư dần khuất xa. Dù trên danh nghĩa đang về nhà, nhưng tôi lại cảm nhận mình đang cách xa “nhà” hơn bao giờ hết.
Ba ngày ở đây, tôi và Diệp Ninh gặp những người bạn cũ, đồng nghiệp cũ. Khuôn mặt họ xa lạ nhưng tấm thịnh tình thì dư tràn. Khi họ vỗ vai tôi, nghẹn ngào không nói thành tiếng:
“Còn sống là tốt, cậu còn sống… là tốt rồi!”
Họ rõ ràng rất vui khi tôi quay về, nhưng không hiểu sao, lúc nhìn tôi, cứ như còn điều gì đó muốn nói lại thôi. Tựa hồ tôi nên hỏi họ chuyện gì đó, hoặc có lẽ tôi bây giờ… không nên như thế này mới đúng.
Đến ngày thứ ba, Chị Lý tìm gặp tôi. Chị bảo tôi vẫn còn một căn nhà nữa. Trong lòng tôi chợt nghĩ đến một địa điểm. Khi chị đưa chúng tôi đến Trường An Khang Thành, trái tim tôi như được xác nhận.
Là đơn nguyên (khu) số ba, tầng ba, hai căn hộ. Diệp Ninh hỏi: “Căn nào vậy?” thì tôi đã đứng trước cửa phòng 302 bên trái. Chị Lý moi chìa khóa, nhìn tôi ngẩn người giây lát rồi nói: “Ừ, đúng là 302.”
Khoảng tầm tám, chín giờ sáng, nắng rực rỡ nhất. Mở cửa, ánh mặt trời trải khắp nền nhà. Căn hộ ba phòng ngủ, hai phòng khách, mỗi phòng đều ngập trong nắng ấm.
“Nắng đẹp quá, A Nam ơi, anh mua căn này vì thích ánh sáng mặt trời ở đây à?”
Tôi không biết. Nhưng trong ký ức hình như có một lời giải thích hoàn hảo hơn.
Cả phòng chủ yếu trang trí tông cam: rèm màu cam, vỏ sofa màu cam, ga giường cũng màu cam, mang lại cảm giác ấm áp dễ chịu. Trên tường lưu lại rất nhiều vết in, hình như chỗ từng treo khung ảnh.
Giữa phòng khách có một quầy bar rộng, kỳ lạ là không có lấy một chai rượu, chỉ toàn đủ loại trà hoa—mười mấy loại. Diệp Ninh cười:
“Cuối cùng em cũng hiểu vì sao anh thích trà hoa rồi.”
Rồi cô hào hứng:
“A Nam, em có món quà tặng anh này!”
Vừa dứt lời, từ phòng ngủ chạy vụt ra một chú mèo mướp lông vàng, quanh cổ có một khoang lông trắng. Kỳ lạ là nó lao thẳng về phía tôi, quẩn quanh chân tôi, cố dụi người vào. Nó kêu như thể rất nôn nóng. Cuối cùng tôi cúi người, nó bỗng nhảy tót vào tay, chui vào lòng tôi.
“Ui, con mèo thân thiện ghê! Cho em ôm tí nào!”
Diệp Ninh chìa tay định bế, liền bị nó tát cho hai phát.
“Vốn dĩ nó là mèo của A Nam. Tên nó là Khoai Tây, ngày trước anh nhận nuôi nó đấy. Vừa mấy bữa nay tôi trông nó thay anh, mệt muốn chết.”
Chả trách nó lại quấn tôi đến thế.
Tôi bế nó vào căn phòng lúc nãy, mở ngăn tủ cạnh đầu giường lôi ra hộp pate. Bé mèo có vẻ đói lâu, chưa kịp bật nắp đã sấn tới.
Chị Lý cười bảo:
“Vẫn chỉ nghe lời cậu thôi. Người khác đút thử nó cũng không chịu ăn.”
Chị liền cầm túi xách:
“Thôi được rồi, tôi có việc nên đi trước. Có gì cứ liên lạc cho tôi.”
Tiễn Chị Lý xong, từ sau lưng vang tiếng kêu thất thanh. Diệp Ninh bị mèo cào. Tôi mau chóng tìm hộp sơ cứu dưới tủ tivi, lôi lọ cồn i-ốt ra sát trùng cho Diệp Ninh.
“A Nam, sao anh biết i-ốt để ở đấy?”
Tôi… cũng không rõ. Chỉ là hành động tự nhiên.
Diệp Ninh cười, nhìn sang con mèo đang ăn dở hộp pate:
“Có vẻ nó không ưa em cho lắm.”
Vốn định ở lại thêm hai ngày, nhưng nhà hàng bên chỗ Diệp Ninh đột ngột có việc, cô vội quay về xử lý. Cô bảo tôi ở lại hai hôm, gặp gỡ thêm những người nên gặp. Mấy bữa nay, tôi đã gặp không ít, nhưng cứ thấy thiếu một người quan trọng nhất.
Tối đến không hiểu sao tôi lại lên cơn sốt cao, người nóng hầm hập, mơ màng mê sảng. Trong giấc mơ, tôi thấy có một cậu bé chào đời ngay trong căn hộ này, học tiểu học ở trường ngay cạnh nhà, lên cấp hai thì học trường trong tuyến, thi đỗ vào ngôi trường cấp ba hàng đầu. Ngày nào cậu cũng dậy sớm đạp xe đến trường. Yên sau mãi mãi chỉ dành cho một người, trong cặp lúc nào cũng có hai chiếc bình giữ nhiệt…
Dần dà cậu lên đại học, theo học cảnh sát. Mọi người đều mừng cho cậu. Trong bữa tiệc cảm ơn thầy cô, cậu ôm ngang vai một cô gái, lớn giọng:
“Ngày chúng mình tụ họp lại, là lúc uống rượu mừng đám cưới của tớ!”
Cô gái xấu hổ đỏ bừng mặt, cậu thì coi câu ấy như lời hứa danh dự.
Cô gái rất dịu dàng, đối xử với cậu cực tốt. Cô đích thân xin sợi dây đỏ mang cho cậu, mong cậu được bình an. Cậu cũng xin cho cô một sợi, mong cô đừng trêu cậu vì nốt ruồi lệ nơi khóe mắt.
Năm tháng qua đi, cậu bắt đầu lên kế hoạch cầu hôn từ rất sớm. Con người cậu vốn “liều”, lại nghĩ ra chiêu thức cầu hôn cũng “liều”. Biến buổi cầu hôn thành một pha “tai nạn xe”. Chiếc xe phóng thẳng vào nơi bố trí, cô gái khóc òa. Cậu cứ nghĩ vì mình đã khiến cô cảm động. Dẫu sao khung cảnh đó, từ loài hoa cô thích đến phông nền cam rực, rồi cả bạn bè người thân đều tề tựu. Cậu nhẹ nhàng bế cô dậy, dỗ dành:
“Đến giờ rồi.”
Cậu biết cô nhất định sẽ lấy mình, nên mới dám ngông nghênh thiết kế một pha cầu hôn thế này.
Sau đó mọi thứ diễn ra đúng như dự tính: chụp ảnh cưới, gói kẹo mừng, đặt nhà hàng, thử đi thử lại thực đơn đến bốn lần. Đời này cậu chỉ cưới một lần, không dám qua loa.
Mọi thứ đâu vào đấy, đêm tổng duyệt trước đám cưới, rõ ràng chỉ là diễn tập, thế mà cậu hồi hộp đến nỗi bước chân trái chân phải lẫn lộn. Khổ sở lắm mới xong, cậu lại nhận lệnh ngay. Cô gái bảo cậu yên tâm đi làm nhiệm vụ. Cậu hứa sẽ quay về cưới cô sau một tuần. Nhưng nhiệm vụ lần đó cực khó, họ trúng ổ mai phục, cậu bị thương nặng rồi bị quẳng xuống biển. Nước biển tràn vào bụng, lục phủ ngũ tạng như bị bóp nghẹt. Mặt cậu đỏ gay vì ngạt, phổi như sắp nổ tung, bỗng một tiếng “ầm” vang lên—
Tôi choàng tỉnh khỏi cơn mơ, khắp người vã mồ hôi, há miệng thở dồn dập. Cảm giác chèn ép, ngộp thở từ từ lùi đi. Tôi nhìn cuốn album đang mở trên bàn, người trong giấc mơ dần trùng khớp với chàng trai trong ảnh.
Giữa đêm khuya, tôi chạy vụt ra khỏi nhà, lại đến Trường An Khang Thành. Vừa mở cửa, trong đầu tôi vang vọng tiếng ai đó:
“Nắng chiếu ấm lắm, Khoai Tây cũng thích ấy chứ!
Thẩm Quan Nam, sau này chúng mình ở đây luôn được không?
Có anh, có Khoai Tây, sau này sinh một bé gái nữa… Thẩm Quan Nam ơi, cả nhà bốn người ta nhất định hạnh phúc mỹ mãn!”
“Được, vậy chúng mình mua nơi này đi.”
Hóa ra đó mới là lý do thực sự.
“Đừng uống Coca, cổ họng em dễ viêm. Để anh pha trà hoa cho em, muốn trà hoa hồng hay bách hợp?”
“Em không thèm, em muốn hoa cúc công.!”
Nhìn mười mấy hộp trà, tôi bàng hoàng nhận ra, hóa ra người thích trà hoa… chẳng phải tôi.
Mỗi món đồ nội thất trong nhà đều do hai đứa tự chọn lựa. Cái giường gỗ to kia, tôi vì sợ cô ấy ngủ quên rồi bướng bỉnh chẳng chịu lấy tôi, nên mới ấn định hôn lễ vào buổi hoàng hôn. Vậy mà người vắng mặt trong lễ cưới… lại là tôi.
Cái sofa nâu này, tôi từng phải nằm tạm hai đêm vì lỡ nói sai, còn viết bản kiểm điểm nghìn chữ, tiện thể nghĩ luôn lời thề cầu hôn.
Thấy mấy cái đinh trên tường, tôi rảo bước vào phòng ngủ, quỳ xuống bên giường, thò tay với lấy chiếc hòm to giấu dưới đó. Tất cả ảnh của chúng tôi đều ở trong này.
Từ tấm hình chung đầu tiên năm mười mấy tuổi đến tấm ảnh cưới, cô ấy mặc váy cưới màu cam, đứng dưới ánh hoàng hôn, cười đẹp như nhành lan dạ hương trong tay. Khi tôi cầu hôn, cô ấy đồng ý mà không hề chần chừ. Lúc ấy, cô tin chắc tôi sẽ dốc cho cô ấy trọn tình yêu.
Trong hòm còn có một món đồ chơi nho nhỏ. Đó là thứ cô gắp được ở phòng game đúng ngày cầu hôn. Cô xem nó như bùa may mắn. Chỉ là con thú bông bình thường, nhưng bởi đó là hôm tôi cầu hôn, nên trong mắt cô, nó liền mang ý nghĩa đặc biệt.
Cuối cùng, tôi mò thấy hai chiếc cốc giữ nhiệt, một xanh một hồng. Ngày xưa, mỗi khi cô uống thêm chút nước, tôi mừng phát điên, muốn nâng niu chiếc cốc ấy như bảo vật. Lúc đó, tôi yêu cô biết bao…
Tất cả những thứ này… đều là báu vật của Thẩm Quan Nam! Mà tôi chính là Thẩm Quan Nam! Sao tôi có thể quên chính mình cơ chứ! Tôi làm sao có thể quên mình là Thẩm Quan Nam!!!
Tôi hoàn toàn sụp đổ, nước mắt tuôn xối xả không kìm nổi:
“Niệm Nhất!”
“Thì ra em đã sớm xuất hiện trước mặt anh. Sao anh lại không nhận ra em chứ! Sao lại như vậy! A…!!!”
Tôi điên cuồng đấm xuống sàn, dùng máu tươi trút giận, trút nỗi phẫn uất trong tim.
Phát tiết xong, tôi như quả bóng xì hơi, ngã sõng soài xuống đất. Qua làn nước mắt lẫn lộn, tôi thấy Niệm Nhất trong ký ức đang trở mình rời giường lúc gần chạng vạng, khoe với tôi rằng sẽ nấu canh cá cho tôi với Khoai Tây. Tôi chậm rãi đưa tay, chỉ muốn lại ôm cô thêm lần nữa…
“Anh đi nghỉ đi. Chờ anh ngủ dậy là có canh cá nóng mà ăn!”
Tôi không kìm được, cứ lại gần rồi lại gần:
“Khoai Tây, con leo xuống mau, đừng quấy ba nữa. Mẹ đi mở hộp cho con này. Con ngoan đi, ba về đâu có dễ.”
Cô ôm Khoai Tây quay lưng đi:
“Đừng đi, đừng bỏ anh lại!”
Tôi chồm tới, lại ngã xuống sàn, cơn đau làm tôi tỉnh ra.
Đây mới đích thực là cuộc sống của Thẩm Quan Nam! Cuộc đời có Mạnh Niệm Nhất mới là cuộc đời của Thẩm Quan Nam!
Tôi mất tăm ba ngày. Đội trưởng Vương và Chị Lý tìm thấy tôi ở Trường An Khang Thành. Lúc ấy, tôi đang ôm tấm ảnh cưới của chúng tôi, nằm bệt trên nền, tiều tụy chẳng còn sức sống.
“Niệm Nhất đâu? Tôi xin mọi người… nói cho tôi biết Niệm Nhất ở đâu? Làm ơn…”
Chị Lý và Đội trưởng Vương nhìn nhau, và trong ánh mắt họ, tôi thấy được sự nuối tiếc xót xa.
Trên bia mộ, cô gái kia giống hệt trong trí nhớ của tôi. Tôi quỳ trước mộ, run rẩy đưa tay chạm vào gương mặt cô khắc trên đá:
“Niệm Nhất, anh về rồi… Niệm Nhất, anh về đây…”
Không còn ai nhảy chồm lên người tôi để đòi ôm, cũng chẳng còn ai đợi tôi ở nhà nữa.
“Rốt cuộc anh đã làm gì thế này! Anh đã làm những gì vậy!”
“Quan Nam, Niệm Nhất để lại thư cho anh.”
Tôi sốt sắng mở lá thư, thấy nét chữ quen thuộc của cô:
Gửi Quan Nam:
Hy vọng anh mở lá thư này vẫn khỏe.
Khi còn trẻ, anh hay viết thư cho em, nhưng em lại ít viết cho anh. Thật không ngờ, lá thư duy nhất này lại thành di thư.
Anh đừng tự trách. Em hiểu hết. Việc anh giữ được mạng sống đã rất vất vả rồi. Những thứ khác, hãy cứ làm theo lương tâm anh muốn. Với em, Thẩm Quan Nam của em mãi yêu em đến phút cuối, vậy là đủ.
Em có được quãng thanh xuân tươi đẹp nhất để yêu anh, từng năm trời được anh kiên định yêu thương, em đã hạnh phúc vô ngần. Tuy đám cưới của chúng ta còn dang dở, nhưng trong lòng em, em đã gả cho anh hàng ngàn vạn lần. Suốt đời này, chúng ta là người thân, thế là em mãn nguyện.
Sau này, anh cứ an nhiên sống như A Nam, đừng oán trách gì. Rốt cuộc là chúng ta không duyên nợ. Đừng nhớ về em nữa, để em còn sớm đầu thai.
Quan Nam của em, mong anh rộng lòng, mong anh bình yên cả đời.
Niệm Nhất kính bút.
Xem xong thư, tôi cảm thấy như lục phủ ngũ tạng đều bị móc sạch. Tôi ngồi phịch xuống đất, lá thư trong tay ướt đẫm nước mắt.
Tôi mịt mờ rời nghĩa trang, chợt hiểu thế nào là “sống chẳng bằng chết.”
2
Hôm nhận được điện thoại của cảnh sát, tôi vừa xử lý xong vụ rò rỉ nước trong bếp. Cứ tưởng A Nam trở về, bảo tôi ra đón, ai ngờ cảnh sát nói anh đang bị thương nặng, hôn mê bất tỉnh.
Đây là lần thứ hai tôi đến Lâm Thành. Đội trưởng Vương đón tôi, trên đường ông bảo: A Nam đã khôi phục ký ức, nhớ ra tên thật của anh và vị hôn thê của anh. Nhưng vợ sắp cưới ấy đã qua đời vì bạo bệnh. Anh đau khổ vô cùng.
Nước mắt tôi lập tức tuôn trào:
“Cho nên… anh ấy muốn đi theo cô ấy sao?”
Đội trưởng Vương lắc đầu:
“Niệm Nhất sẽ không cho phép anh làm thế. Hơn nữa, trước mặt Niệm Nhất, anh ấy đã hứa sẽ sống tiếp.”
“Lần này là tai nạn. Anh ấy bị xe đâm khi lao ra cứu một bé gái.”
Tôi lau nước mắt, lòng cuống quýt hỏi không ra hơi:
“Vậy… anh ấy rốt cuộc thế nào rồi ạ?”
Đội trưởng Vương chỉ lặng im nhìn ra ngoài cửa xe. Đến gặp bác sĩ, tôi mới hiểu vì sao ông lại có vẻ mặt ấy. Bác sĩ nói:
“Bệnh nhân hoàn toàn không có ý chí muốn sống. Người nhà hãy cố nói chuyện với anh ấy nhiều hơn.”
Nhìn A Nam nằm mê man trên giường bệnh, tôi bối rối chẳng biết làm sao, đành không ngừng gọi tên anh:
“A Nam ơi, nhà hàng của chúng ta mới ăn nên làm ra, hơn nữa ta còn mới cưới nhau, anh mau tỉnh lại đi, được không?”
Người trên giường vẫn chẳng chút phản ứng. Anh quyết tâm ra đi, chúng tôi không thể níu giữ.
“A Nam, xin lỗi anh. Em chính là người thay đổi cuộc đời anh, em quá ích kỷ, tất cả là lỗi của em. Đáng chết phải là em mới đúng, anh sống tiếp được không!”
Dù tôi nói thế nào, người trên giường vẫn không có phản ứng gì.
Thấy anh giờ ra nông nỗi này, tôi nhớ lại lần đầu gặp anh. Khi ấy, bố tôi vớt được anh nhờ chiếc thuyền đánh cá của ông. Anh bị thương khắp người. Bố tôi tốt bụng, cho rằng gặp anh cũng là duyên, bèn vay mượn đủ đường để cứu chữa, khiến nhà vốn nợ nần chồng chất nay càng kiệt quệ hơn. Thời hạn hẹn trả nợ là cuối tháng, nhưng hôm ấy bọn chủ nợ đến sớm, mang đi hết đồ đạc đáng giá trong nhà, còn phá tan cái quán ăn nhỏ, đánh gãy cả hai chân của bố tôi.
Khi bình phục, anh day dứt vô cùng, cương quyết muốn ở lại giúp tôi trả món nợ đó. Cả hai chúng tôi cùng nhau trả nợ suốt hai năm trời, cuối cùng xong hết. Đúng lúc anh định rời đi, bố tôi đổ bệnh nặng. Trước khi qua đời, ông trối trăng nhờ cậy anh lo cho tôi và quán ăn nhỏ.
Anh biết di nguyện của bố, lặng lẽ mở rộng quán ăn tồi tàn ngày trước. Tôi biết anh luôn âm thầm tìm lại người thân. Cả hai chúng tôi từng báo án, nhưng thị trấn trên đảo lúc ấy lạc hậu quá, chẳng tìm nổi chút tin tức nào về anh. Tôi cũng hiểu trong lòng anh từng muốn rời đảo, đi tìm gia đình, chỉ là bị tôi và cái quán này trói chặt.
Sau khi đồng ý cưới tôi, anh không đi tìm người nhà nữa. Anh hứa sẽ thay bố tôi chăm sóc tôi chu đáo, tôi mới chịu yên lòng. Tôi sợ lắm, sợ anh rời bỏ tôi. Rồi dần dà chúng tôi làm ăn khấm khá. Sự xuất hiện của Đội trưởng Vương và mọi người khiến tôi lại trở nên cảnh giác, nhất là khi chị Niệm Nhất xuất hiện.
Gần như theo linh cảm, ngay lúc thấy cách chị Niệm Nhất nhìn Thẩm Quan Nam, tôi đã đoán họ từng có một quá khứ.
Nhưng thì sao chứ?
Bây giờ ở bên Thẩm Quan Nam là tôi, người sắp sửa tổ chức hôn lễ cùng anh cũng là tôi.
Huống chi, năm năm chung sống, ít nhiều tôi hiểu được A Nam. Anh là người tốt nhất tôi từng gặp, rất xem trọng lời hứa. Đã hứa ở bên tôi thì tuyệt đối không lật lọng.
Có lẽ cũng vì chột dạ, thêm việc lờ mờ đoán ra người anh ấy bao năm tìm kiếm chính là Mạnh Niệm Nhất, tôi bắt đầu cố tình tiếp cận chị, cố tình kể cho chị nghe suốt năm năm của tôi và A Nam. Tôi muốn cho chị thấy A Nam đối xử tốt với tôi thế nào, anh yêu tôi ra sao, ngấm ngầm nhắn gửi rằng: A Nam ở bên tôi rất hạnh phúc, người anh yêu bây giờ là tôi. Hơn nữa, tôi tin rằng trên đời này, không ai yêu Thẩm Quan Nam hơn tôi.
Dù không xảy ra chuyện ngoài ý muốn ấy, tôi cũng dần đoán ra: chính chị là người A Nam luôn tìm kiếm.
Chỉ là A Nam không nhận ra chị, còn chị cũng không bộc bạch sự thật. Tôi tưởng chị đã nhường tôi. Vừa áy náy, trong lòng tôi lại nhiều hơn sự nhẹ nhõm—may mắn là tôi đã nắm được hạnh phúc của mình. Nhưng chẳng ngờ được rằng… chị ấy lại mang bệnh nặng.
Không phải chị nhường tôi, mà là chị không muốn A Nam phải khó xử. Đến cuối đời, chị vẫn nghĩ cho anh.
Nhìn A Nam trên giường bệnh, tôi bật ra sự thật giày vò mình bấy lâu:
“Thật ra anh trách tôi cũng đúng. Năm xưa khi báo án xong, người ta có báo tin về anh, nhưng tôi đều chặn lại. Vì tôi quyến luyến anh, tôi thật lòng không thể rời xa anh. Tôi thực sự muốn mãi mãi ở bên anh.”
Tôi quệt nước mắt:
“Giờ tôi hiểu mình sai rồi. Anh và chị Niệm Nhất âm dương cách trở đều tại tôi. Nếu không có tôi ngáng đường, có lẽ hai người đã sớm đoàn tụ, trở thành cặp đôi hạnh phúc. Chị ấy cũng chẳng tới mức phát bệnh. Tất cả đều do tôi sai, nếu anh muốn đi thì cứ đi, tôi không níu anh nữa.”
Vừa dứt lời, ngón tay người bệnh khẽ nhúc nhích. Đúng lúc tôi vừa thấy hy vọng anh tỉnh lại, đột nhiên máy móc trong phòng đổ chuông báo động. Trên màn hình theo dõi xuất hiện một đường thẳng tắp…
“A Nam!”
A Nam đã ra đi. Tôi an táng anh bên cạnh chị Niệm Nhất.
Hai người vốn là một đôi, chỉ tại tôi, họ lỡ dở năm năm, gặp lại nhưng chẳng nhận ra nhau. Tôi là kẻ tội đồ. Cách chuộc lỗi duy nhất là giúp họ hội ngộ lần nữa.
Về phần tôi, nửa đời còn lại sẽ ở lại hòn đảo kia, ngày đêm cầu phúc cho họ.
Vĩnh biệt, A Nam của tôi.
[ TOÀN VĂN HOÀN ]