LÊ HOA LẠC

Chương 4



7.

Kể từ khi trở thành phu thê thực sự, Cố Đình Chi lúc nào cũng quấn lấy ta. Hắn không rời ta nửa bước, bất kể ta đi đâu hắn đều theo sát. Nếu ta ra ngoài cùng lão phu nhân, hắn nhất định tìm cách đi cùng, không thì cũng ở gần để trông chừng.

Có lần lão phu nhân dẫn ta ra bờ sông để giặt quần áo, muốn ta trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt thường ngày. Cố Đình Chi cũng ôm sách theo, ngồi ngay gần đó. Khi các cô nương trong làng đến trêu ghẹo, hắn lập tức đáp trả, mặt mày nghiêm túc:
“Các cô có quyền gì mà quản? Ta yêu thương nương tử, muốn ở cạnh nàng thì làm sao? Các cô không có nam nhân đi cùng, nhưng nương tử của ta thì có!”

Lời vừa dứt, hắn bị các cô nương kia trừng mắt dọa nạt, có người còn cầm chày giặt quần áo lên như muốn nện hắn một trận ra trò.

Cuộc sống ở nông thôn tuy vất vả nhưng lại có những niềm vui riêng. Trước đây, ta chỉ biết rằng quần áo bẩn sẽ có người giặt, nhưng làm thế nào để giặt thì hoàn toàn không biết. Lão phu nhân tận tình cầm tay chỉ dạy từng bước. Nhưng đến khi ta làm thuần thục, bà lại không cho ta động tay nữa:
“Con sau này sẽ là nương tử của cử nhân, làm bấy nhiêu đó là đủ rồi! Mau đến chỗ nam nhân của con mà ngồi chơi đi!”

Không thể trái ý bà, ta đành lóc cóc chạy đến bên Cố Đình Chi. Lúc này, khung cảnh xung quanh thật yên bình, những đàn vịt, ngỗng thong thả bơi lội, tạo nên bức tranh đồng quê đẹp đến lạ.

“Lão phu nhân thật là người đặc biệt!” Ta cảm thán.

Cố Đình Chi cười, kể lại chuyện ngày bé:
“Mẹ ta không ép ta phải dậy sớm hay học hành vất vả. Bà chỉ mong ta thi đỗ tú tài để miễn thuế má, không bị ức hiếp. Leo lên cao quá sẽ mệt, bà chỉ mong sống yên ổn, ăn no mặc ấm là đủ.”

Nghe hắn nói, ta bất giác nhớ đến mẹ mình. Bà là người truyền thống, luôn yêu cầu ta phải hành xử đúng mực, không được phép có bất kỳ sai sót nào. Mỗi cử chỉ, lời nói đều phải tuân theo khuôn phép.

“Bà luôn sợ người ngoài chê trách, nói rằng bà không biết dạy con.”

Ta kể, và Cố Đình Chi thở dài:
“Thảo nào nàng sống trong khuôn khổ, đến ý chí cũng trở nên mệt mỏi.”

Hắn thường nói, khi đứng mỏi thì ngồi, khi ngồi mỏi thì nằm, tại sao lại tự làm khổ chính mình? Nhưng ta hiểu, gia đình quyền quý không cho phép người trong nhà phạm sai lầm, bởi một người phạm lỗi sẽ kéo theo cả gia tộc chịu chỉ trích.

Ví dụ rõ nhất chính là việc ta bị Ngụy gia hủy hôn. Dù không làm gì sai, nhưng mọi người đều cho rằng ta là nguyên nhân, kéo cả danh tiếng của hai nhà xuống tận bùn.

May thay, tất cả đã qua đi, giờ chỉ còn là ký ức mờ nhạt.

Từ khi vở kịch “Lê Hoa Lạc” ra mắt, kinh thành chia thành hai luồng ý kiến. Một phe cho rằng sự trong trắng là trên hết, phe còn lại thì khẳng định mạng sống mới là điều quan trọng nhất.

Nhưng những tranh luận ấy chẳng còn liên quan gì đến ta.

Kỳ thi đã gần kề, Cố Đình Chi ngày càng chăm chỉ học tập, dẹp bỏ mọi thói quen lười biếng để tập trung cho mục tiêu. Trong khi đó, ta tính toán xem liệu số tiền trong tay có đủ để mua một ngôi nhà lớn hơn hay không. Nhưng Cố Đình Chi phản đối:
“Đó là của hồi môn của nàng, không được tiêu bừa bãi.”

“Nhà nào lại có nam nhân thèm nhỏ dãi của hồi môn của nương tử chứ? Nàng gả cho ta rồi thì phải ăn của ta, uống của ta, chẳng lẽ lại để nàng phải chi tiền mua sắm cho ta?”

Thấy hắn kiên quyết, ta đành thôi.

Vài ngày sau, lão phu nhân dẫn hai nha hoàn đi chơi, lúc trở về còn mang theo một tiểu cô nương chừng mười ba, mười bốn tuổi, mất đi một bên tay. Cô bé nằm bất động trong vòng tay nha hoàn, khuôn mặt trắng bệch vì mất máu.

“Ông già nhà Nhị nha đầu này điên rồi!” Lão phu nhân tức giận mắng.

Hỏi ra mới biết, cô bé là cháu gái của lão tú tài trong làng. Chỉ vì được một nam nhân kéo tay cứu lên khi rơi xuống nước, lão tú tài liền cho rằng cháu gái mình mất trong trắng, lập tức chặt đứt tay nàng.

Cô bé đau đến ngất lịm, lão ta còn không cho người chữa trị. Lão phu nhân bất chấp tất cả, sai nha hoàn mang cô bé về nhà.

Nhìn cô bé bất động, nước mắt ta không ngừng rơi. Ta nghiến răng, giận đến mức toàn thân run rẩy:
“Lễ nghĩa cái gì, trong trắng cái gì? Một cô bé mười bốn tuổi, chỉ bị kéo tay một cái mà lại bị đối xử như vậy. Sao có thể nhẫn tâm trơ mắt nhìn cô bé chết được?”

Ta lập tức sai người mời đại phu giỏi nhất. Cô bé tỉnh lại sau khi được chữa trị, nhưng ánh mắt đờ đẫn, không còn linh hồn, chỉ trừng trừng nhìn trần nhà.

Đại phu nói, cô bé bị sợ hãi quá mức, cần uống thuốc an thần và nghỉ ngơi để phục hồi tinh thần. Nhìn nàng, ta chỉ mong có thể làm điều gì đó để cứu rỗi những số phận bất hạnh như vậy.

 

8.

Lão tú tài tìm đến Cố gia đòi người, nhưng bị Cố Đình Chi đánh đuổi thẳng tay.

“Ông cũng là tú tài, ta cũng là tú tài, địa vị chúng ta ngang nhau. Chỉ khác là ông vừa già vừa bảo thủ, không chịu nói lý!”

“Ông muốn ta giao Nhị nha đầu cho ông, khác nào đẩy con bé trở về địa ngục? Nương tử ta đã nói rồi, nếu nhà ông không cần đứa trẻ này, vậy chúng ta sẽ nuôi!”

Dựa vào sức trẻ, Cố Đình Chi dễ dàng đẩy lão tú tài ra ngoài.

Lão tú tài vốn nổi tiếng bảo thủ, tự cao tự đại vì cái danh tú tài trong làng. Ở nhà, ông luôn nói một không hai, cả nhà từ lớn đến nhỏ đều phải hầu hạ. Nhị nha đầu từ bé đã phải giặt giũ, nấu cơm, trong khi cháu trai thì chẳng phải động tay làm bất cứ việc gì.

Nhị nha đầu thậm chí còn không có một cái tên, chỉ được gọi bằng cái danh chung chung ấy. Mẹ nàng, dù thương con, cũng chỉ dám lén lút đến thăm, để lại chút bạc lẻ rồi vội vã rời đi trong nước mắt. Bà không có quyền quyết định số phận con gái mình, cũng không dám đón con về.

Kể từ khi Nhị nha đầu đến Cố gia, ta không ngừng suy nghĩ: Lễ nghĩa liệu có thực sự quan trọng hơn mạng sống con người?

Cố Đình Chi nhận ra ta mất ngủ, liền nhẹ nhàng đề nghị:
“Nương tử có thể dạy chữ cho các nữ tử trong làng. Khi hiểu biết nhiều hơn, họ sẽ tự nhận ra rằng mạng sống quan trọng hơn tất cả những lễ nghĩa hà khắc.”

Lời nói của hắn như thắp sáng trong ta một ngọn lửa. Nhờ sự ủng hộ ấy, ta không còn lười biếng hay chìm trong suy sụp như trước.

Mở một lớp dạy chữ ở thôn làng không hề dễ dàng. Trở ngại lớn nhất chính là lão tú tài. Ông dựa vào tuổi tác và danh phận, tập hợp một nhóm nam nhân bảo thủ đến phản đối.

May mắn thay, có lão phu nhân, Nhị nha đầu và các nha hoàn cùng đến tham gia lớp học, khiến nhiều cô nương khác tò mò và dần gia nhập.

Khi lão tú tài dẫn người đến Cố gia, ta không chịu được sự ngang ngược ấy nữa, liền mượn danh cha ra đe dọa:
“Ông chỉ là một tú tài, còn cha ta là Lễ bộ Thị lang. Cha ta chưa lên tiếng, cớ gì ông lại có quyền phản đối?”

Dĩ nhiên cha chẳng hề hay biết chuyện này, nhưng lời nói ấy đủ khiến lão tú tài cứng họng.

Ta tiếp lời, giọng lạnh lùng nhưng kiên quyết:
“Ông suốt ngày rao giảng lễ nghĩa, vậy nếu Nhị nha đầu chết đi, ông có vui sướng không? Ta hỏi ông, nếu mẹ ông còn sống, gặp nguy hiểm được nam nhân cứu giúp, ông cũng bắt bà tự sát sao?”

“Còn con dâu ông thì sao? Nếu nàng rơi vào tình cảnh tương tự, ông cũng ép nàng tự vẫn chứ?”

“Nếu vậy, sau này ai dám cứu nữ nhân nữa? Phải chăng ông muốn tất cả nữ tử chỉ được ở nhà, đóng cửa cài then, còn ngoài đường chỉ toàn nam nhân? Nếu thế, ông còn cưới vợ sinh con làm gì? Hay ông định cưới nam nhân luôn đi?”

Những lời ấy khiến lão tú tài trân trối, miệng há hốc, khuôn mặt già cỗi co rúm, mắt mờ đục như cá chết. Ông đứng như tượng, không nói thêm được lời nào.

Nhị nha đầu mất một bên tay, nhưng cô bé không buông xuôi. Nàng học cách mặc quần áo, viết chữ, ăn uống chỉ bằng một tay.

Gặp lại ông nội, ánh mắt nàng không còn sợ hãi mà lạnh lùng, xa lạ như nhìn một người hoàn toàn không liên quan.

“Tẩu tẩu, sau này ta cũng muốn giống như tẩu, học thêm nhiều kiến thức để dạy lại cho các nữ tử khác.”

“Ta muốn nói với họ, đừng để bản thân bị vùi lấp trong hậu viện, cũng đừng phụ thuộc vào bất kỳ ai.”

Thấy ánh mắt nàng rực sáng, ta cảm thấy yên lòng hơn bao giờ hết.

Cố Đình Chi lo ta vất vả nên thường tranh thủ thời gian rảnh đến giúp dạy chữ. Lớp học không chỉ thu hút các nữ tử trong làng mà còn lan rộng đến những thôn xóm khác. Nhiều cô nương không có tiền mua giấy mực, đành dùng cành cây viết trên nền đất.

Có người học được vài chữ thì bị gia đình gọi về. Có người học xong rồi lại dạy lại cho các cô nương không thể đến lớp.

Thậm chí, vài cậu bé cũng được đưa đến học. Cha mẹ họ, những người không biết chữ, hy vọng con mình học được chút ít để biết tính toán trong nhà.

Khoảng sân của Cố gia dần trở nên chật chội. Ta quyết định bỏ thêm tiền mua đất mở rộng.

Nhị nha đầu và Liễu Nhi trở thành những phụ tá đắc lực của ta. Họ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho thấy mạng sống quan trọng hơn tất cả. Một người mất tay, một người mất chân, nhưng cả hai đều sống, đều tìm lại được ý nghĩa cuộc đời.

Chỉ khi còn sống, con người mới có hy vọng. Còn cái gọi là "trinh tiết," so với mạng sống, chẳng đáng là gì cả.

Chương trước Chương tiếp
Loading...